Page 1 of 1

Những phát hiện mới về COVID

PostPosted: Tue Jan 04, 2022 7:24 pm
by NewsReporter
VOA - Health


‘Di sản’ của COVID: Kháng thể tự tấn công


Nhiều tháng sau khi bình phục từ COVID, những người sống sót gia tăng những kháng thể có thể tấn công lầm chính các mô và nội tạng của mình, dù là khi mắc COVID họ không bị bệnh nặng, theo các phát hiện mới.


Trong số 177 nhân viên y tế bình phục từ COVID trước khi có vaccine, tất cả đều có kháng thể tự động lâu dài, trong đó có những kháng thể có thể gây nên viêm mãn tính và gây tổn thương khớp xương, da và hệ thần kinh. “Chúng tôi thường không dự trù thấy một chuỗi những kháng thể tự động đa dạng như vậy nơi những người này, hoặc tồn tại ở mức cao này cho tới 6 tháng sau khi bình phục lâm sàng hoàn toàn,” bà Susan Cheng thuộc Viện Tim Cedar-Sinai Smidt ở Los Angeles, Mỹ, cho biết. Kiểu các kháng thể tự động gia tăng này khác biệt giữa nam và nữ, các nhà nghiên cứu báo cáo trong tạp chí y khoa Translational Medicine vào tuần trước.


“Chúng tôi chưa biết kéo dài bao lâu, ngoài 6 tháng, các kháng thể này sẽ duy trì ở mức cao và/hoặc dẫn tới các triệu chứng lâm sàng nào quan trọng hay không,” bà Cheng nói. “Từ nay trở đi rất cần thiết phải theo dõi các ca bệnh.” Toán của bà đang điều tra liệu mức kháng thể tự động gia tăng có liên hệ đến những triệu chứng kéo dài của những người nhiễm COVID lâu dài hay không và có kế hoạch nghiên cứu mức kháng thể tự động trong thời kỳ hậu lây nhiễm với những biến thể mới hơn của virus.


Hiệu quả của tế bào B yếu dần, nhưng không bị Omicron đánh bại


Hiệu quả của kháng thể do các tế bào ‘bộ nhớ’ B trong hệ thống miễn dịch sản sinh ra để chống lại biến thể Omicron dù yếu dần nhưng vẫn quan trọng, các nhà nghiên cứu tin như vậy.


Một khi cơ thể học được cách nhận dạng SARS-CoV-2, dù là do bị nhiễm COVID hay do tiêm chủng, tế bào B tạo ra những kháng thể mới chống lại virus, nếu không có sẵn đủ kháng thể luân lưu trong máu có thể trung lập hóa virus.


Trong một cuộc nghiên cứu được đăng trên bioRxiv trước khi được các đồng nghiệp kiểm duyệt chéo, các nhà nghiên cứu phân tích công năng của hơn 300 kháng thể sản sinh bởi tế bào ‘bộ nhớ’ B nơi những tình nguyện viên đã tiêm chủng, trong đó có một số người trước đây từng bị nhiễm SARS-CoV-2.


“Omicron dường như né được phần lớn tế bào bộ nhớ B” các nhà nghiên cứu cho biết và nói thêm rằng Omicron “dường như vẫn bị nhận dạng hiệu quả bởi 30% tổng số kháng thể và bởi gần 10% tất cả kháng thể trung lập hóa hùng hậu,” hai nhà nghiên cứu Matthieu Mahevas và Pascal Chappert thuộc Đại học Paris nói trong một email chung.


Phối hợp với những thành tố khác trong hệ miễn dịch, đặc biệt là tế bào T, hiệu quả của tế bào B có thể giúp giải thích tại sao hầu hết những ai đã tiêm vaccine rồi bị nhiễm COVID không bị bệnh nặng đến phải nhập viện, các nhà nghiên cứu nói.


Hoạt động của các biến thể trong tế bào khiến chúng hữu hiệu hơn


Cùng với những đột biến gia tăng giúp cho virus corona xâm nhập các tế bào, những đột biến thay đổi cách thức virus hành xử bên trong tế bào là một yếu tố quan trọng cho thấy tại sao một số biến thể lây nhiễm nhiều hơn, các nhà nghiên cứu phát hiện.


Những phát hiện được đăng trên tạp chí Nature cho thấy các nhà khoa học “phải bắt đầu nghiên cứu các đột biến bên ngoài phần gai” mà cho tới nay là trọng tâm của vaccine và các loại thuốc kháng thể, theo nhà nghiên cứu Nevan Krogan, Đại học California, San Francisco. Nghiên cứu biến thể Alpha, toán của ông phát hiện một đột biến tại một vị trí không phải gai làm cho những tế bào bị nhiễm trùng tăng cường sản xuất loại protein có tên là Orf9B. Orf9B làm tê liệt một protein khác tên là TOM70 mà tế bào dùng để gởi tín hiệu cho hệ miễn dịch.


Với mức OrfB9 cao hơn làm bất hoạt TOM70, hệ thống miễn dịch không đáp ứng tốt và virus có thể dễ dàng né khỏi bị phát hiện, các nhà nghiên cứu nói.


Khoa học gia Krogan cho hay cùng một loại đột biến đã được nhận ra trên Delta, “và chắc chắn là hầu như cũng cùng đột biến trên Omicron,” cho thấy chúng có thể có ảnh hưởng tương tự lên hệ miễn dịch. Thông tin mới này có thể khuấy động việc phát triển các loại thuốc nhắm vào sự tương tác của Orf9b và TOM70.