Mỹ có thêm việc làm nhưng tỉ lệ thất nghiệp tăng
Ông Gary Steinberg thuộc Văn phòng Thống kê Lao động nói việc mâu thuẫn này thỉnh thoảng xuất hiện vì con số việc làm tạo thêm và những tin tức về tỉ lệ thất nghiệp đến từ nhiều cuộc thăm dò khác nhau, hỏi những câu hỏi khác nhau, và thuộc những nhóm người hoàn toàn khác nhau.
Tỉ lệ thất nghiệp được lập từ một cuộc thăm dò 60.000 hộ gia đình. Các nhà nghiên cứu hỏi ai là người được trả tiền để làm việc hay tìm những việc làm được trả tiền mới đây.
Tỉ lệ thất nghiệp là số phần trăm của những người thất nghiệp so với tổng số những người có thể làm việc và muốn làm việc.
Dữ liệu về con số những việc làm có thêm và những việc làm bị mất thu thập được trong một cuộc thăm dò khác tại 400.000 địa điểm làm việc. Những chủ địa điểm này được hỏi có bao nhiêu người đang nằm trong danh sách trả lương của họ.
Sharon Poczter, giáo sư Quản lý Kinh tế trường đại học Cornell nói theo dõi việc làm rất phức tạp vì có nhiều người thường xuyên ra vào lực lượng lao động. Nếu có người bỏ cuộc không tìm việc làm, và do đó không được tính như thất nghiệp, thì tỉ lệ thất nghiệp giảm sút. Tuy nhiên nếu những công nhân “nản chí” này thấy có những dấu hiệu kinh tế cải thiện, và bắt đầu đi tìm việc làm, những người này chính thức được xem như thất nghiệp và tỉ lệ gia tăng.
Bà Poczter nói có một vấn đề tương tự khi mọi người đến tuổi về hưu và rời lực lượng lao động. Những công nhân đang làm việc mà rời lực lượng lao động sẽ đẩy tỉ lệ thất nghiệp lên cao, trong khi những người thất nghiệp đến tuổi về hưu làm tỉ lệ thất nghiệp xuống thấp.
Các chuyên viên nói có một số nơi khác có những điều lạ xuất hiện trong các dữ liệu. Chẳng hạn như nếu một người có việc làm toàn thời gian và một việc làm bán thời gian, cuộc thăm dò sẽ thấy có hai việc làm, ngay cả chỉ liên quan đến một người.
Tương tự như thế, nếu một doanh nhân trẻ như Steve Jobs làm việc trong nhà để xe của cha mẹ, phát minh máy tính Apple, ông có thể không có tên trong cuộc thăm dò về việc làm, nhưng sẽ xuất hiện trong cuộc thăm dò hộ gia đình.
Giáo sư Poczter và những chuyên gia khác nói hệ thống hiện hành đã chuyển sang theo dõi những thay đổi theo cách thức và nơi chốn mọi người làm việc. Đếm số công nhân trong một nhà máy luyện thép dễ hơn là khám phá những nhà phát minh xuất hiện trong những công ty như Facebook.
Ông Steinberg thuộc Văn phòng Thống kê Lao động nói cơ quan của ông thường xuyên tìm phương thức tốt hơn để tìm và thông báo những dữ liệu.