Những sự chuyển hướng của văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20
Trong các tác phẩm nổi tiếng vào những năm đầu thế kỷ 20, như "Cáo hủ lậu văn" hay "Văn minh tân học sách", các nhà nho yêu nước và thức thời đã kịch liệt phê phán tính chất bất lực và yếu hèn của Việt Nam. Một trong những lý do chính khiến Phan Bội Châu phải xuất dương là sự tuyệt vọng đối với văn hoá truyền thống: "Sách vở thánh hiền chán ngắt, đọc chỉ làm cho mụ người đi mà thôi" (Hiền thánh liêu nhiên, tụng diệc si). Người ta hiểu là họ không thể tiếp tục đánh nhau với Pháp bằng những ngọn tầm vông, những lưỡi dao phay như các nghĩa quân ở Cần Giuộc ngày nào. Sau phong trào Cần Vương và Văn Thân, người ta biết là điều kiện đầu tiên để đánh bại Pháp là phải có vũ khí ngang ngửa với Pháp trước đã. Phải có đại bác. Phải có súng. Phải có đạn. Muốn vậy, người ta phải học tập Pháp trước đã, phải Âu hoá trước đã. Việc học tập có thể được tiến hành trực tiếp, từ Pháp và qua tiếng Pháp, mà cũng có thể được tiến hành một cách gián tiếp, qua tân thư bằng chữ Hán hoặc qua tấm gương Âu hoá thành công của Nhật Bản.
Việc thay đổi nhận thức này giải thích tại sao từ đầu thế kỷ 20, phần lớn các hoạt động cách mạng của Việt Nam đều tập trung vào mục tiêu duy tân đất nước. Về phương diện xã hội, đó là cuộc vận động cắt tóc ngắn, bỏ tục nhuộm răng, mặc âu phục và phát triển kinh doanh. Về phương diện giáo dục, đó là việc chống lại lối học từ chương, chống lại loại văn chương bát cổ, vận động học chữ quốc ngữ và học các ngành khoa học thực dụng. Về phương diện ý thức hệ, người ta xem Pháp không phải chỉ là một kẻ thù mà còn là một bậc thầy. Trong bài "Á tế á ca" của Đông Kinh Nghĩa Thục, một tổ chức cách mạng ôn hoà tiêu biểu nhất trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 20, có hai câu, trong đó, các tác giả gọi Pháp là "thầy": "Việc học thức dần dần mở rộng / Thầy Lang Sa rồi cũng nể nang." Chính Phan Châu Trinh cũng quan niệm như thế khi đưa ra chủ trương "ỷ Pháp cầu tiến", tức là dựa vào Pháp để tiến bộ. Về phương diện văn học, đó là quá trình chuyển hướng từ Đông phương sang Tây phương: trước, mẫu mực của văn học Việt Nam là Trung Hoa, sau, là Pháp; trước, thần tượng của giới cầm bút là những Khổng Tử, Mạnh Tử, Lý Bạch, Đỗ Phủ, v.v..., sau, là những Địch-tạp-nhi (Descartes), Mạnh-đức-tư-cưu (Montesquieu), Lư-thoa (Rousseau), Phúc-lộc-đặc-nhĩ (Voltaire) v.v...; trước, người ta sáng tác theo sự chỉ đạo của tư tưởng văn dĩ tải đạo của Nho giáo, sau, theo quan niệm phản ánh hiện thực hay bày tỏ cảm xúc của các nhà văn hiện thực và lãng mạn của Pháp; trước, người ta say mê tính chất tiết chế, khuôn sáo và cổ điển của văn chương chữ Hán, sau, tính chất tự nhiên, tự do và trong sáng của văn chương Tây phương.
Sự chuyển hướng từ Đông phương sang Tây phương càng phát triển mạnh mẽ nhờ một hiện tượng khác xảy ra hầu như cùng một thời gian: sự chuyển vùng từ nông thôn sang thành thị. Trước, khi cả nước là một vùng nông thôn mênh mông, môi trường sinh hoạt văn học đương nhiên là ở nông thôn; sau, xuất phát từ việc khai thác thị trường và vơ vét tài nguyên của thực dân Pháp, các thành thị theo nghĩa hiện đại dần dần xuất hiện, trở thành một môi trường hoạt động mới của văn học.
Có điều, việc chuyển vùng vừa tiệm tiến vừa không đồng đều, cho nên, có giai đoạn, kéo dài hàng mấy chục năm, chung quanh thời điểm giao mùa giữa hai thế kỷ, văn học Việt Nam được chia thành hai dòng, ở hai môi trường khác nhau: một ở nông thôn và một ở thành thị. Dòng đầu, ở nông thôn, là sự tiếp nối của văn học truyền thống Việt Nam: tác giả là các nhà nho; độc giả thường cũng là các nhà nho và một số khác là nông dân; văn tự là chữ Nôm hoặc chữ Hán; phương thức phổ biến chủ yếu là chép tay và truyền miệng. Dòng sau, ở thành thị, là một hiện tượng mới mẻ trong lịch sử Việt Nam: tác giả là các trí thức tân học hoặc cựu học nhưng cấp tiến, thích nghi nhanh với thời đại; độc giả là thị dân, có thể là thầy thông, thầy ký hoặc một cô hàng xén, một chị thợ may; văn tự chủ yếu là chữ quốc ngữ; và phương thức phổ biến chủ yếu là qua sách báo. Dĩ nhiên, giữa hai dòng, có những vùng giao thoa nhất định. Trường hợp của Tú Xương là nằm trong vùng giao thoa ấy.
Sự tồn tại đồng thời của hai nền văn học này thực chất cũng là sự tồn tại đồng thời của hai văn hoá vốn tự bản chất có nhiều xung đột với nhau. Chính sự xung đột này làm nẩy bật lên dòng văn học trào phúng với những tên tuổi tiêu biểu như Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Học Lạc, Phan Điện, Nguyễn Thiện Kế, Tú Mỡ, v.v... vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Đứng từ nền văn hoá nông thôn nhìn sang văn hoá thành thị, người ta dễ thấy mọi cái mới đều là lố bịch; ngược lại, từ nền văn hoá thành thị nhìn về văn hoá nông thôn, người ta dễ thấy những cái cũ là lạc hậu, là lỗi thời, và do đó, lố lăng. Chính vì vậy, có một thời đối tượng chế nhạo trong văn học trào phúng là những thầy thông, thầy phán "sáng rượu sâm banh, tối sữa bò" và những phụ nữ, nói như Tú Xương, "chí cha chí chát khua giày dép / đen thủi đen thui cũng lượt là". Một thời khác, nhất là từ khoảng đầu thập niên 30 của thế kỷ 20 trở đi, khi xu hướng hiện đại đã thắng thế, đối tượng chế nhạo của văn học trào phúng lại là những ông xã, ông lý áo dài khăn đóng và răng đen và tóc búi ngơ ngác giữa các đô thị.
Sự phát triển của văn học trào phúng, đến lượt nó, đã có những tác động tích cực đến quá trình phát triển của văn học nói chung. Trước hết, nhờ tiếng cười, tính chất nghiêm trang biến mất, óc cuồng tín và mê tín cũng biến theo, con người dễ trở thành bao dung trước cái mới lạ hơn. Sau nữa, văn học trào phúng phải dựa trên, hơn nữa, càng ngày càng củng cố, mối quan hệ gần gũi giữa người viết và người đọc. Văn học trào phúng là để đọc ngay, tạo ra hồi âm ngay, chứ không phải là thứ để dành trong ngăn kéo, cho mai hậu. Điều này dẫn đến một số hệ quả quan trọng: một, đề tài văn học trào phúng phải có tính thời sự, gắn liền với cuộc sống xã hội chung quanh; hai, chất liệu phải là những gì cụ thể và nhiều kịch tính; ba, ngôn ngữ phải giản dị để người đọc có thể lĩnh hội ngay tức khắc; và bốn, kết cấu tác phẩm phải khéo léo để có thể làm bật lên tiếng cười vào chính cái lúc tác phẩm kết thúc. Có thể nói chính văn học trào phúng đã góp phần đắc lực trong việc làm sụp đổ lối văn chương bát cổ mà một số nhà nho cấp tiến muốn đoạn tuyệt, và cũng chính nó là tiền thân của xu hướng hiện thực chủ nghĩa trong văn học Việt Nam sau này.
Bên cạnh dòng văn học trào phúng, việc văn học chuyển từ môi trường nông thôn đến thành thị còn làm xuất hiện hai hiện tượng nổi bật, có nhiều ảnh hưởng lớn lao đến diện mạo văn học của thời đại: báo chí và xuất bản. Từ cuối thế kỷ 19 trở về trước, văn học gắn liền với học đường và thi cử; từ đầu thế kỷ 20 về sau, văn học gắn liền với báo chí và xuất bản.
Gắn liền với học đường và thi cử, dù muốn hay không văn học trung đại cũng gắn liền với triều đình, đạo đức, và nặng tính chất công thức; gắn liền với báo chí và xuất bản, văn học gắn liền với quần chúng, cuộc sống và nặng tính chất giải trí. Lệ thuộc vào học đường và thi cử, văn học trung đại hoàn toàn có tính chất nghiệp dư, không thể trở thành một sinh hoạt thực sự. Dựa trên báo chí và xuất bản, văn học hiện đại dần dần được chuyên nghiệp hoá, ít nhất theo nghĩa kinh tế: người cầm bút có thể dùng văn chương làm kế sinh nhai. Nhưng để bán báo và bán sách được, người cầm bút không thể không quan tâm đến độc giả. Và độc giả, từ một nhân tố thương mại dần dần trở thành một nhân tố quan trọng trong lãnh vực thẩm mỹ: thị hiếu của những kẻ đọc sách và mua sách dần dần làm thay đổi hệ thống ngôn ngữ (giản dị hơn), hệ thống đề tài (gần với thời sự hơn), hệ thống thể loại (sự thịnh hành của văn xuôi tự sự), và hệ thống nhân vật (các trí thức tân học và các cô hàng xén... thay thế cho các nho sĩ, các anh hùng và các tiểu thư đài các ngày xưa).
Cũng từ môi trường thành thị, một yếu tố khác xuất hiện: chủ nghĩa cá nhân. Trước, trong văn hoá truyền thống, trung tâm của xã hội là gia đình; sau, là cá nhân. Trước, cái chung cao hơn cái riêng; sau, ngược lại, cái riêng cao hơn cái chung. Trước, làm thơ hay viết văn là cách bày tỏ cái ta của cộng đồng; sau, là cách phát ngôn của cái tôi.
Tất cả những sự chuyển hướng và chuyển vùng này - kèm theo những sự thay đổi như là những hệ quả của chúng - dẫn đến hiện tượng chuyển hệ trong văn học Việt Nam: từ trung đại sang hiện đại. Về phương diện sinh hoạt, tính chất hiện đại trong văn học Việt Nam, theo tôi, có ba đặc điểm chính: thứ nhất, văn học ít nhiều được chuyên nghiệp hoá, trở thành một cái nghề, dù là một cái nghề khá hẩm hiu; thứ hai, hệ thống thể loại được phát triển hoàn chỉnh, bao gồm cả sáng tác lẫn phê bình và nghiên cứu; trong sáng tác, có cả thơ lẫn các thể tự sự, từ truyện đến ký, từ tuỳ bút đến kịch; và thứ ba, văn học tách ra khỏi đạo đức và sau đó, phần nào khỏi báo chí, để trở thành một lãnh vực hoạt động thẩm mỹ tương đối độc lập.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.