Nhìn chiến tranh Iraq như một trận đánh, đương nhiên là Mỹ thắng. Thắng rất dễ dàng. Quân Mỹ và đồng minh bắt đầu tấn công vào ngày 20 tháng Ba năm 2003. Đến ngày 9 tháng Tư, tức 20 ngày sau, họ đã chiếm được thủ đô Baghdad. Bên Iraq, có 9.200 binh sĩ bị giết chết; phía đồng minh, Mỹ có 139 và Anh có 33 binh sĩ bị tử vong.
Nhìn rộng hơn một tí, toàn bộ cuộc chiến tranh, từ lúc khởi chiến (tháng 3/2003) đến lúc rút quân (tháng 12/2011), cũng có thể nói Mỹ thắng. Mỹ chiếm được Iraq, bắt và treo cổ Saddam Hussein, đập đổ được chế độ độc tài, dần dần hình thành nên một chế độ dân cử tương đối dân chủ, và cuối cùng, rút quân ra khỏi Iraq một cách an toàn. Như vậy là thắng chứ còn gì nữa?
Thế nhưng, nhiều người vẫn cứ băn khoăn. Lý do đơn giản: Cần phải đặt cuộc chiến Iraq vào hai chu cảnh lớn: Một, trong một cuộc chiến tranh lớn hơn: chiến tranh chống khủng bố và độc tài; và hai, trong thế địa chính trị tại vùng Trung Đông.
Nhớ, tướng Tommy Franks của Mỹ đã đặt ra tám mục tiêu chính khi đánh Iraq năm 2003: “Một, chấm dứt chế độ Saddam Hussein. Hai, phát hiện, cô lập và tiêu hủy các loại vũ khí sát thương hàng loạt (mass destruction). Ba, tìm kiếm, bắt và trục xuất khủng bố ra khỏi Iraq. Bốn, sưu tầm tài liệu tình báo liên quan đến các mạng lưới khủng bố. Năm, sưu tầm các tài liệu liên quan đến mạng lưới vũ khí hủy diệt hàng loạt phi pháp trên phạm vi toàn cầu. Sáu, giải tỏa lệnh cấm vận và tiến hành tức khắc các cuộc viện trợ nhân đạo cho dân chúng Iraq. Bảy, bảo đảm an toàn cho các mỏ dầu khí và tài nguyên thiên nhiên vốn thuộc về nhân dân Iraq. Và cuối cùng, giúp người dân Iraq tạo điều kiện chuyển tiếp sang một chính phủ đại biểu do dân bầu để quản trị đất nước của họ.”
Không phải mục tiêu nào ở trên cũng được hoàn thành. Ngoài chuyện không có các loại vũ khí sát thương hàng loạt hay các mạng lưới khủng bố toàn cầu nào ở Iraq, thất bại chính của Mỹ không chừng là nằm ở mục tiêu cuối cùng. Sau khi Mỹ chiếm Iraq một cách dễ dàng, Iraq trải qua những năm tháng nội chiến triền miên. Khủng bố nối tiếp khủng bố. Chỉ riêng tại thủ đô Baghdad, người ta ước tính mỗi ngày có khoảng từ 11 đến 33 người bị giết chết trong các cuộc đặt bom ở các khu dân sự, kể cả chợ búa và đền thờ.
Về phương diện chính trị, các phe phái liên tục chống đối nhau. Đúng là Iraq đã bắt đầu xây dựng được một số nền tảng cho một chế độ dân chủ, tuy nhiên, tương lai chính trị của nước này vẫn đầy bất an.
Cái giá của cuộc chiến này khá cao. Về nhân mạng, 115.376 người Iraq bị giết chết từ năm 2003 đến 2011.
Về phía đồng minh, số binh sĩ bị chết của Mỹ là 4.488; của Anh là 179, của Ý 33, của Ba Lan 30, của Ukraine 18, Bulgaria 13, v.v.. Về tài chính, chi phí cho cuộc chiến tranh ấy, về phía Mỹ, là khoảng trên 845 tỉ đồng.
Chính vì vậy, nhiều học giả Mỹ đặt vấn đề: Một, liệu cuộc chiến tranh ấy có đáng không? Và hai, có thể xem là Mỹ thắng trận không?
Không có câu trả lời nào thật dứt khoát và thuyết phục hẳn. Eric S. Margolis, tác giả cuốn sách American Raj: Liberation or Domination? trả lời thẳng thừng: Mỹ thất bại. Fred Kaplan cho đó là một cuộc chiến tranh không cần thiết nhưng cũng cho rất khó trả lời câu hỏi ai thắng ai.
Christian Whiton, chủ tịch Hamilton Foundation, lại cho là Mỹ thành công, hơn nữa, hai lần thành công: vừa lật đổ được một chế độ được xem là độc tài và tàn bạo nhất thế giới vừa xây dựng được cơ sở cho một nền dân chủ lâu dài tại Iraq.
Một số người đề nghị chờ thời gian trả lời: Mỹ thành công nếu chính phủ dân chủ mới phôi thai ở Iraq càng ngày càng vững mạnh; ngược lại, Mỹ thất bại nếu nó sụp đổ và Iraq lại sống dưới chế độ độc tài như thời Sadam Hussein.
Gai góc hơn là vấn đề địa chính trị (geopolitics). Một trong những động cơ chính của Mỹ khi quyết định tấn công và xâm chiếm Iraq là biến Iraq thành một quốc gia dân chủ thân Mỹ, từ đó, biến nước này thành một trung tâm quyền lực của Mỹ để, một mặt, thúc đẩy quá trình dân chủ hóa ở các nước Hồi giáo Trung Đông, mặt khác, sẵn sàng trấn áp mọi cuộc chiến tranh chống Mỹ trong tương lai. Cả hai đều gắn liền với địa chính trị.
Tuy nhiên, ở cả hai khía cạnh này, dường như Mỹ không thành công, hoặc ít nhất, chưa thành công.
Thứ nhất, nền dân chủ ở Iraq còn rất mỏng manh và yếu ớt.
Thứ hai, do tính chất mỏng manh và yếu ớt ấy, Iraq cũng không thể đóng vai trò một căn cứ địa chính trị hay quân sự đáng tin cậy cho Mỹ. Sau năm 2003, Mỹ đã xây dựng Tòa Đại sứ tại Baghdad, một Tòa đại sứ lớn và tốn kém nhất của Mỹ với chi phí hơn 750 triệu trên một mảnh đất rộng trên 104 mẫu Anh, nơi, thoạt đầu, chứa đến 16.000 nhân viên, trong đó, có đến 2.000 nhân viên ngoại giao, với tham vọng xem đó như một đầu não ngoại giao và an ninh trong khu vực. Tuy nhiên, với lý do nêu trên, tham vọng này dường như chỉ là một ảo tưởng.
Thứ ba, việc xâm lăng Iraq - nhất là việc không phát hiện bất cứ một thứ vũ khí hủy diệt hàng loạt nào ở Iraq cũng như việc không thể tìm ra chứng cứ nào về mối quan hệ giữa Saddam Hussein và al-Qaeda vốn là những lý do chính được đưa ra để gây chiến - đã gây bất bình cho cộng đồng Hồi giáo tại Trung Đông.
Thứ tư, quan trọng hơn hết, cuộc chiến tranh Iraq dường như làm cho Iran, kẻ thù của cả Mỹ lẫn Iraq trước đây, mạnh hơn hẳn. Mạnh vì hai lý do: Một, đối thủ chính và nguy hiểm nhất của Iran là Saddam Hussein đã bị tiêu diệt; và hai, phái Shia, một giáo phái thuộc Hồi giáo đang cầm quyền tại Iran càng ngày càng phát triển mạnh, nắm rất nhiều quyền lực tại Iraq, thay cho giáo phái Sunni trước đây. Với sự thắng thế của phái Shi’ite, Iran có thể sẽ có một lực lượng đồng minh rất đáng kể ở Iraq.
Dĩ nhiên, vẫn có người phản bác các nhận định trên với lý do chính: Bất kể những thất bại ở lãnh vực này hay lãnh vực khác, Mỹ cũng đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh khủng bố vốn mở màn sau biến cố 11 tháng 9 năm 2001. Lực lượng khủng bố, trên cơ bản, đã bị dẹp tan, không còn là một đe dọa lớn đối với Mỹ cũng như trên thế giới nữa. Vì thế, Mỹ có thể an tâm quay về với một đối thủ mới xuất hiện ở phương Đông: Trung Quốc.
Như vậy, cuộc bàn cãi về chuyện thắng hay bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh Iraq từ năm 2003 cho đến nay vẫn còn tiếp tục và có lẽ sẽ còn tiếp tục dài dài.
Thật ra, đó cũng là điều bình thường. Chuyện thắng hay bại là một vấn đề phức tạp hơn hẳn những gì chúng ta thường nghĩ. Thường, nghĩ về chiến tranh hay chính trị, chúng ta hay tự giới hạn mình ở một biến cố hay một sự kiện nào đó. Như một cái gì biệt lập và đơn lập. Trong khi, trên thực tế, bất cứ sự kiện hay biến cố nào cũng nằm trong một chu cảnh (context) với nhiều quan hệ chằng chịt theo nhiều chiều và với nhiều kích thước khác nhau, từ kích thước địa chính trị đến kích thước lịch sử. Bởi vậy, không hiếm trường hợp thắng một trận đánh nhưng lại thua một cuộc chiến tranh hay thua một cuộc chiến tranh nhỏ nhưng lại thắng một cuộc chiến tranh lớn. Hoặc ngược lại.
Thời Chiến tranh lạnh, Mỹ hòa ở chiến tranh Triều Tiên, và có thể gọi là thua, như nhiều người đã nói, cuộc chiến tranh ở Việt Nam, nhưng lại thắng trong toàn bộ cuộc chiến tranh lạnh, nghĩa là thắng toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Cũng có thể nói, phần nào, Mỹ thắng Liên Xô ở cuộc chiến tranh tại Afghanistan từ 1979 đến 1989. Dù hai bên không hề trực tiếp đụng độ với nhau, nhưng ai cũng biết suốt thời gian chín năm ấy, Mỹ và nhiều đồng minh của Mỹ, từ Pakistan đến Anh, Saudi Arabia (và, kể cả Trung Quốc) đã đổ tiền giúp đỡ các kháng chiến quân người Afghanistan rất nhiều. Không những giúp đỡ tiền bạc mà còn giúp vũ khí và cả việc huấn luyện quân sự, bao gồm các chiến thuật du kích và, thậm chí, các phương pháp khủng bố. Cuối cùng, không chịu đựng nổi, từ đầu năm 1987, Liên Xô quyết định rút quân: Giữa năm 1988, rút một nửa, đến đầu năm 1989 thì rút toàn bộ. Phe tự do hoan hỉ xem đó như một chiến thắng.
Nhưng chiến thắng ấy, oái oăm thay, lại mở đầu cho một thất bại của Mỹ trong trận chiến chống khủng bố: Một trong những lực lượng được Mỹ giúp đỡ và huấn luyện để chống lại Liên Xô thời ấy, sau này, đã trở thành một lực lượng Hồi giáo cực đoan mang tên al-Qaeda, trong đó có cả Osama bin Laden: Chính những người ấy, vào năm 2001, đã tổ chức cuộc tấn công khủng bố khủng khiếp ngay trên đất Mỹ.
Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.